Tin trong nước

Phục hồi các dòng sông “chết”: Sẽ thành lập 5 Ủy ban lưu vực sông

Nước sông Nhuệ đen đặc, ô nhiễm nghiêm trọng

Nước sông Nhuệ đen đặc, ô nhiễm nghiêm trọng

Để giải cứu các dòng sông “chết”, Bộ TN&MT đề xuất với Thủ tướng Chính phủ thành lập 5 Uỷ ban lưu vực sông để gắn trách nhiệm chung của các tỉnh, các bộ, ngành. Các Uỷ ban lưu vực sông này có vai trò điều phối, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.

Theo ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai nhiều giải pháp để phục hồi các dòng sông “chết”. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang phục hồi các dòng sông ô nhiễm một cách đơn lẻ, cục bộ mà chưa có giải pháp tổng thể.
 
Một số phương án phục hồi các dòng sông đã được đặt ra ví dụ như việc đầu tiên cần bắt tay vào thu gom, xử lý triệt để nước thải sinh hoạt từ khu dân cư. Đồng thời thu gom cả nước thải ô nhiễm trong sản xuất nông nghiệp phát sinh từ phân bón, thuốc trừ sâu… Sau đó sẽ đến khâu tạo nguồn dòng chảy cho dòng sông.
 
Để làm được việc này, ông Châu Trần Vĩnh cho rằng, cần phải đề xuất cơ chế, chính sách, thu hút nguồn lực. Bởi vì việc phục hồi dòng sông "thành" hay "bại" chính là cơ chế để vận hành. Việc xây dựng một công trình thu gom, xử lý nước thải, trạm bơm tiếp nước không khó nhưng để duy trì nó thì cần phải có cơ chế rõ ràng cho nhà đầu tư tham gia xử lý, vận hành.

 
Hiện nay, Cục Quản lý tài nguyên nước đang trình Bộ TN&MT đề án thí điểm phục hồi các dòng sông, bao gồm thu gom, xử lý nước thải. Đề án dự kiến sẽ trình Thủ tướng Chính phủ năm 2025, nếu được thông qua và có đủ nguồn lực thì trong vòng khoảng 5-7 năm sẽ giải quyết được ô nhiễm ở nhiều dòng sông.
 
Theo đó, Đề án thí điểm phục hồi các dòng sông sẽ có hai phương án, một là thí điểm ngay vào kênh thủy lợi Bắc Hưng Hải đang bị ô nhiễm, rồi sau đó triển khai mở rộng ra sông Nhuệ, Đáy và các sông nội đô Hà Nội.
 
Hướng thứ hai sẽ làm chương trình tổng thể trên toàn quốc đó là rà soát, thống kê, lập danh mục nguồn nước bị suy thoái, ô nhiễm, cạn kiệt sau đó trình Thủ tướng Chính phủ.
 
Theo Cục trưởng Châu Trần Vĩnh, hai phương án trên, phương án nào cũng có ưu điểm, nhược điểm và lựa chọn phương án nào sao cho phù hợp để triển khai là trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương nhằm chung tay xử lý nước thải đồng bộ và xử lý dòng chảy lưu thông.
 
Một giải pháp nữa để phục hồi các dòng sông “chết” đó là việc quản lý các dòng sông phải theo lưu vực chứ không thể theo địa bàn hành chính. Vì vậy, Khi Luật Tài nguyên nước 2023 có hiệu lực, Bộ TN&MT đề xuất với Thủ tướng Chính phủ thành lập 5 Ủy ban lưu vực sông gồm: sông Hồng - Thái Bình, sông sông Bắc Trung Bộ, sông Nam Trung Bộ, sông Đông Nam Bộ và sông Mê Công để gắn trách nhiệm chung của các tỉnh và các bộ, ngành.
 
Mỗi một Ủy ban sẽ phụ trách một số lưu vực sông chính, trong đó sông nhánh như sông Nhuệ - sông Đáy sẽ là Tiểu ban nằm trong Ủy ban lưu vực sông. Dự kiến, trong Uỷ ban lưu vực sông có lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương để chỉ đạo đồng bộ, liên tục, vận hành, điều phối liên ngành chứ không còn là trách nhiệm của một ngành, một đơn vị.

 

Nguồn tin: baotainguyenmoitruong.vn

Phục hồi các dòng sông “chết”: Sẽ thành lập 5 Ủy ban lưu vực sông

 

Thủy điện Hòa Bình mở cửa xả thứ 4

Hồ chứa thuỷ điện Hoà Bình

Hồ chứa thuỷ điện Hoà Bình

Thực hiện quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) lệnh giám đốc Công ty Thủy điện Hòa Bình mở tiếp cửa xả đáy thứ 4 thủy điện Hòa Bình vào 11h ngày 6/8.
Bộ trưởng NN&PTNT yêu cầu các địa phương cần theo dõi chặt chẽ diễn biến mưa lũ, an toàn công trình, lưu lượng đến hồ, mực nước thượng, hạ lưu hồ chứa kịp thời báo cáo về bộ trong các trường hợp xảy ra bất thường.
Hồi 7h sáng nay, mực nước thượng lưu hồ Hòa Bình ở cao trình 107,82m, lưu lượng đến hồ 9.241m3/s, lưu lượng xả 7.144m3/s. 
Đến nay, cả 4 hồ trên hệ thống sông Hồng đang vận hành xả lũ. Trong đó, hồ thủy điện Hòa Bình mở 4 cửa xả đáy; hồ thuỷ điện Sơn La mở 3 cửa xả đáy; hồ thuỷ điện Tuyên Quang đang mở 3 cửa xả đáy; hồ thủy điện Thác Bà đang mở 2 cửa xả mặt.

Để đảm bảo an toàn cho công trình và các hoạt động ven sông, Bộ NN&PTNT đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh các tỉnh, thành phố tổ chức thông báo ngay đến các cấp chính quyền, người dân, các tổ chức có hoạt động trên sông, ven sông; cơ sở nuôi trồng thủy sản, phương tiện vận tải thủy; các bến đò ngang, đò dọc. Bên cạnh đó, rà soát, đảm bảo an toàn các công trình đang thi công; các hoạt động khai thác tập kết, trung chuyển cát sỏi biết thông tin xả lũ hồ thủy điện Hòa Bình chủ động các biện pháp phòng tránh đảm bảo an toàn về người, tài sản.
Các địa phương cũng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan phối hợp với Chủ hồ có giải pháp đảm bảo an toàn đối với người dân hiếu kỳ đến gần khu vực xem xả lũ; báo cáo và đề xuất kịp thời phương án xử lý các tình huống bất thường.
Mực nước lúc 7h sáng nay 6/8 trên một số sông như sau:
Sông Hồng tại trạm Hà Nội là 6,96m; sông Thái Bình tại trạm Phả Lại là 2,80m.
Sông Gâm tại Chiêm Hoá là 37,85m, trên BĐ2 là 0,3m.
Sông Chảy tại Thác Bà là 25,56m, trên BĐ3 là 3,56m.
Sông Trà Lý tại Quyết Chiến là 3,22m, dưới BĐ2 là 0,08m.
Sông Tích tại trạm Kim Quan là 7,38m, dưới BĐ2 là 0,22m; trạm Vĩnh Phúc là 7,07m dưới BĐ2 là 0,13m.

Nguồn: DWRM

Thủy điện Hòa Bình mở cửa xả thứ 4

 

Hộ gia đình khó khăn được vay vốn đầu tư công trình nước sạch và vệ sinh môi trường

(TN&MT) - Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định 10/2024/QĐ-TTg về tín dụng thực hiện cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Theo Quyết định, từ ngày 2/9/2024, các hộ gia đình khó khăn ở nông thôn được hưởng mức cho vay nước sạch là 25 triệu đồng/01 loại công trình/khách hàng.

123-01-1-.jpgNguồn: baotainguyenmoitruong.vn

 

Hộ gia đình khó khăn được vay vốn đầu tư công trình nước sạch và vệ sinh môi trường

 

Nước ngọt cho ĐBSCL: Cần lời giải cấp thiết

Hạn hán xâm nhập mặn ở ĐBSCL ngày càng gay gắt

Hạn hán xâm nhập mặn ở ĐBSCL ngày càng gay gắt

“Giải cơn khát nước ngọt” cho ĐBSCL trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn tiếp tục gay gắt là bài toán đặt ra cần lời giải cấp thiết.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang đối mặt với nhiều thách thức về nguồn nước. Tình trạng thay đổi dòng chảy, xói lở bờ sông và bờ biển đã và đang đặt ra vấn đề cấp thiết cho toàn vùng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh kế của hàng triệu người dân trong khu vực. Hàng loạt giải pháp đã được các chuyên gia, nhà quản lý hiến kế nhằm “giải cơn khát nước ngọt” cho ĐBSCL trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn tiếp tục gay gắt.
Sử dụng hợp lý nguồn nước
Theo PGS,TS. Lê Anh Tuấn, giảng viên Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ, hiện vùng ĐBSCL đang đối mặt với 7 thách thức về nguồn nước. Đó là: Biến đổi khí hậu, nước biển dâng; đập thủy điện ở thượng nguồn; chuyển nước sông Mê Công; suy giảm môi trường nước; thay đổi sử dụng đất và mâu thuẫn dùng nước; hiệu quả sử dụng nước thấp và khai thác tài nguyên nước quá mức. Đơn cử như tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười - nơi từng được biết đến là vùng trữ nước nhưng nay lượng nước đã suy giảm nghiêm trọng.
Để đảm bảo an ninh nguồn nước, PGS,TS. Lê Anh Tuấn cho rằng: Giải pháp hiện nay là phải phục hồi khả năng hấp thụ và trữ nước ở các vùng trũng; sử dụng tiết kiệm nước; hạn chế khai thác nước ngầm; xây dựng nhà máy xử lý nước mặn thành nước ngọt và xây dựng những công trình hồ chứa nước lũ.
Quan tâm về vấn đề “sống còn” của vùng, TS. Nguyễn Ngọc Huy, chuyên gia nghiên cứu về biến đổi khí hậu cho biết thêm: Hiện, các nghiên cứu đang tập trung vào lượng nước của ĐBSCL từ sông Mê Công đổ về hay lượng nước ngầm mà chưa tính toán đến lượng nước mưa ở vùng ĐBSCL.
Theo nghiên cứu, lượng mưa thấp nhất ở vùng ĐBSCL mỗi năm vào khoảng 1.600mm và những nơi cao nhất lên đến 2.400mm. Lượng nước mưa này có ý nghĩa quan trọng để sử dụng cho vùng ĐBSCL nhưng chưa được đưa vào kế hoạch, quy hoạch để sử dụng.
Theo TS. Nguyễn Ngọc Huy, ĐBSCL hiện đang giữ nước trên kênh và hòa tất cả các loại nước với nhau, thậm chí nước thải cũng về kênh; nước mưa hay nước sông cũng về kênh và đều không sử dụng được do ô nhiễm hoặc nhiễm mặn. Vì vậy, cần phải có “bài toán” rạch ròi để chống lãng phí nguồn nước ngọt cho vùng ĐBSCL.
“Cần phải phân biệt nguồn nước sử dụng sinh hoạt và nước cho thủy lợi để có những đề xuất phù hợp, hiệu quả trong sử dụng nước ở ĐBSCL. Chúng ta đầu tư hệ thống quản lý sử dụng nước vào giai đoạn này, có thể chi phí cho giải pháp rất lớn. Nhưng với tầm nhìn đầu tư để sử dụng 100 năm thì tôi tin đó không phải là một cái giá đắt, mà là một cái giá phù hợp”, TS. Nguyễn Ngọc Huy nêu quan điểm.
Các nhà khoa học nhận định, tình hình xâm nhập mặn ở ĐBSCL ngày càng tác động sâu hơn và thời gian lâu hơn. Giải pháp quy hoạch thủy lợi cần sử dụng nguồn tài nguyên nước theo hướng thuận thiên.
Điều này có nghĩa người dân và chính quyền vùng ĐBSCL cần phải coi trọng tất cả nguồn tài nguyên từ nước ngọt, nước lợ, nước mặn. Việc phát triển ĐBSCL cần theo hướng thích nghi có kiểm soát, chủ động tạo ra chế độ nước hợp lý trên nền chế độ tự nhiên, giảm mức độ rủi ro.

Hạn hán xâm nhập mặn ở ĐBSCL ngày càng gay gắt

Xây hồ chứa để chủ động điều tiết, kiểm soát lượng nước
Trước các vấn đề cấp thiết liên quan đến thiếu nước ngọt tại ĐBSCL, mới đây, TS. Võ Văn Hải - Giám đốc Trung tâm Đào tạo bồi dưỡng cán bộ tài chính phía Nam (Bộ Tài chính) và một số nhà khoa học đã cùng nghiên cứu và có phương án đề xuất giải pháp thích hợp để góp phần vào việc xây dựng phát triển ĐBSCL bền vững, với dự án “Nước ngọt cho ĐBSCL”. Đó là phương án xây hồ chứa nước để chủ động điều tiết, kiểm soát lượng nước, giảm đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực đến đời sống dân sinh khu vực.
Theo đó, có hai khu vực để xây hồ là “Vườn quốc gia Tràm Chim” - Tam Nông - Đồng Tháp với 3 phương án có chi phí từ 30 nghìn đến 60 nghìn tỷ đồng; Khu bảo tồn “Lung Ngọc Hoàng” - Phụng Hiệp - Hậu Giang với 3 phương án có chi phí từ 18 nghìn tỷ đồng đến 68 nghìn tỷ đồng.
Lý giải về việc chọn 2 khu vực “Vườn quốc gia Tràm Chim” - Tam Nông - Đồng Tháp và Khu bảo tồn “Lung Ngọc Hoàng” - Phụng Hiệp - Hậu Giang để xây hồ chứa nước, TS. Võ Văn Hải cho rằng, Vườn quốc gia Tràm Chim nằm trong vùng trũng Đồng Tháp Mười, từng được biết đến như "túi nước" lớn của ĐBSCL. Việc xây dựng hồ chứa nước ngọt tại đây sẽ hỗ trợ việc điều tiết dòng chảy mùa khô và cung cấp nước cho các tỉnh Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long và Bến Tre thông qua hệ thống kênh liên tỉnh kết nối với các kênh Hồng Ngự - Long An, An Hòa, Đồng Tiến, Phú Hiệp. Đồng thời, việc mở rộng diện tích trong khu vực 5 xã vùng đệm cũng được thực hiện thuận lợi do mật độ dân số thấp (281 người/km2) và chi phí đền bù giải tỏa, tái định cư không quá cao.
Tương tự, việc xây dựng hồ chứa nước vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng, nằm trên khu vực của 3 xã Phương Bình - Phương Phú - Tân Phước (huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang), cũng mang lại nhiều lợi ích cho việc chứa nước và điều tiết nước đối với các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và một phần của tỉnh Kiên Giang và Thành phố Cần Thơ thông qua hệ thống kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp, Lái Hiếu, sông Cái Lớn và nhiều kênh rạch khác. Ngoài ra, việc xây dựng hồ chứa nước tại Lung Ngọc Hoàng cũng đóng góp vào việc bảo vệ khu bảo tồn cảnh quan thiên nhiên tại đây, một vùng đất quan trọng với vai trò lớn trong sinh sản và dự trữ thủy sản cho ĐBSCL.
Theo TS. Võ Văn Hải, mỗi phương án về chi phí xây dựng đều có những ưu, nhược điểm riêng nhưng nên chọn phương án 1 (chi phí khoảng 130 nghìn tỷ đồng) với phương châm “gian nan một lần, nhàn nhã trăm năm”; làm không chỉ vì hiện tại, mà làm còn vì những thế hệ mai sau.
Hơn nữa, do ĐBSCL ở cuối nguồn dòng Mê Công nên cần phải xây dựng những hồ chứa nước ngọt đủ lớn để điều tiết lưu lượng nước ngọt đáp ứng được nhu cầu cho toàn vùng, chứ không phải xây dựng những hồ chứa nước nhỏ tràn lan như hiện nay, vừa tốn kém ngân sách đất đai nhưng hiệu quả không cao. TS. Võ Văn Hải hy vọng “Dự án xây dựng hồ chứa nước ngọt cho ĐBSCL” sẽ được các nhà khoa học, quan tâm góp ý để dự án có thể trở thành một kênh tham khảo hữu ích của các cấp chính quyền.

Nguồn tin: baotainguyenmoitruong.vn

Nước ngọt cho ĐBSCL: Cần lời giải cấp thiết

 

Tham vấn lập Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050

(TN&MT) - Ngày 15/7, tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, Cục Quản lý tài nguyên nước đã tổ chức Hội thảo tham vấn lập Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050. Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh chủ trì Hội thảo.

Tham dự Hội thảo có Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà; đại diện Lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục thủy lợi các tỉnh: Phú Yên, Gia Lai, Đắk Lắk; đại diện các công ty thủy điện lớn trên lưu vực sông Ba.

z5635075320164_ee03cc11997bed3a75f1a6cff52ab376.jpgCục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh phát biểu tại Hội thảo

Phát biểu tại Hội thảo, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cho biết, thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024 và Quyết định số 1622/QĐ-TTg ngày 27/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn 2050, Bộ TN&MT đã giao Cục Quản lý tài nguyên nước tổ chức lập Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050.

Trên cơ sở này, Hội thảo tham vấn được tổ chức hôm nay nhằm đánh giá đầy đủ, toàn diện các vấn đề về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Ba; đồng thời, lấy ý kiến các địa phương và các cơ quan, tổ chức liên quan về giải pháp, phương hướng giải quyết các vấn đề về tài nguyên nước trên lưu vực Sông Ba.

z5635075303696_7ed7b693a1a5a3aac48162b7185d7315.jpgQuang cảnh Hội thảo

Tại Hội thảo, giới thiệu chung về khung Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông Ba và các quan điểm, định hướng trong quy hoạch, ông Lương Quang Phục - Phó Giám đốc Trung tâm Thẩm định và Kiểm định tài nguyên nước, Cục Quản lý tài nguyên nước cho biết, lưu vực sông Ba là một trong 9 lưu vực sông lớn ở Việt Nam, thuộc địa phận của các tỉnh: Gia Lai, Đăk Lăk, Phú Yên và một phần nhỏ thuộc Bình Định. Với diện tích lưu vực là 13.417 km², lưu vực sông Ba có tiềm năng rất lớn về nông lâm nghiệp, thủy sản với hơn 40km bờ biển nơi cửa ra của sông Ba là điều kiện để phát triển đánh bắt thủy hải sản xa bờ.

Ngoài ra, Lưu vực còn có nguồn thủy năng khá lớn, có nhiều vị trí xây dựng thủy điện vừa và lớn. Hiện tại phần lớn nước sử dụng lấy từ nguồn nước mặt các sông hồ. Nước dưới đất sử dụng còn ít so với nguồn nước mặt, chủ yếu cho sinh hoạt và một phần để tưới cho cây công nghiệp như cà phê ở trung thượng du lưu vực.

Ông Lương Quang Phục cũng cho biết, cũng như nhiều lưu vực sông khác tại Việt Nam, Lưu vực sông Ba đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến nguồn nước, cụ thể: Dòng chảy trên lưu vực sông Ba có sự biến động rất lớn theo không gian và biến đổi rất rõ rệt theo thời gian thể hiện qua sự biến động của mùa dòng chảy và dạng phân phối dòng chảy theo tháng trên các khu vực khác nhau của lưu vực sông; Sự phát triển kinh tế và dân số gia tăng kéo theo nhu cầu về năng lượng, tài nguyên thiên nhiên nói chung và nguồn nước nói riêng cũng tăng theo.

Bên cạnh đó, hiện tại chế độ dòng chảy tự nhiên trên sông Ba đã bị biến đổi rất mạnh mẽ do các hoạt động khai thác sử dụng của con người do trên lưu vực đã xây dựng các công trình hồ chứa thủy điện lớn, công trình thủy lợi nhỏ là các hồ chứa, đập dâng, trạm bơm, nhỏ trên các sông suối trung và thượng lưu của lưu vực. Việc vận hành tích nước và xả nước của các công trình trên đã làm biến đổi mạnh mẽ chế độ dòng chảy của sông nhất là dòng chảy trong mùa cạn ở khu vực hạ lưu sông Ba.

Theo ông Lương Quang Phục, so với các sông ở nước ta, chế độ dòng chảy của sông Ba thuộc loại chế độ dòng chảy của sông bị điều tiết mạnh. Biến đổi chế độ dòng chảy của sông Ba hiện tại đang ngày càng có xu thế diễn biến bất lợi cho sử dụng nước, nhất là ở khu vực hạ lưu, hậu quả của việc khai thác sử dụng chưa hợp lý của con người.

Cùng với đó là các vấn đề mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước; vấn đề ảnh hưởng của biến đối khí hậu, thiên tai; vấn đề quản lý tài nguyên nước;... cũng đang làm gia tăng những thách thức liên quan đến nguồn nước trên lưu vực sông Ba.

z5635075303691_66db1ab226d64c5b76144164b081050a.jpgPhó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà phát biểu tại Hội thảo

Phát biểu tại Hội thảo, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà cho biết, ngày 23/2/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 182/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước giai đoạn 2014-2020 với mục tiêu: “Bảo đảm quản lý, khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo phương thức tổng hợp, toàn diện và hiệu quả cao nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia cho trước mắt và lâu dài, góp phần phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội và quốc phòng, an ninh trước diễn biến của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và sự suy giảm của nguồn nước”.

Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Kế hoạch là: “Xây dựng quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông liên tỉnh và quy hoạch tài nguyên nước của các tỉnh, thành phố".

Để có cơ sở triển khai Lập quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba đúng trọng tâm và hiệu quả, nhằm giải quyết tổng thể các vấn đề nêu trên, theo ông Ngô Mạnh Hà, việc thực hiện lập Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là rất cần thiết. Quy hoạch làm cơ sở điều chỉnh và định hướng cho công tác quản lý khai thác, sử dụng nước và bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên lưu vực sông Ba trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực.

Theo đó, Quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông Ba được lập bảo đảm theo các nguyên tắc như sau: Bảo đảm tính toàn diện của nước mặt với nước dưới đất, khai thác, sử dụng tài nguyên nước với bảo vệ, phát triển nguồn nước, phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra; Bảo đảm phân bổ hài hòa lợi ích sử dụng nước giữa các địa phương, các ngành, lĩnh vực, giữa thượng lưu và hạ lưu; bảo đảm an ninh nguồn nước; Bảo đảm là cơ sở cho việc lập các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành khác có nội dung khai thác, sử dụng tài nguyên nước, kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt, kế hoạch bảo vệ nước dưới đất và điều hòa, phân phối tài nguyên nước;...

Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 sẽ bao gồm những nội dung chính như sau: Phân tích, đánh giá hiện trạng tự nhiên, kinh tế - xã hội và định hướng phát triển có liên quan; Dự báo xu thế biến động và các vấn đề về tài nguyên nước cần giải quyết trong kỳ quy hoạch; Quan điểm, mục tiêu của quy hoạch; Định hướng điều hòa, phân phối, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống khắc phục tác hại do nước gây ra và giải pháp, kinh phí, kế hoạch thực hiện.

z5635075303685_eb9b14b9e51906c0e89e2ba81d54d745.jpgCác đại biểu tham luận, đóng góp ý kiến tại Hội thảo

Tại Hội thảo, đại diện các Sở, ngành, chuyên gia đã phát biểu ý kiến, thảo luận làm rõ các vấn đề mà lưu vực sông Ba đang gặp phải và đề xuất giải pháp để có thể đưa vào trong Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm đảm bảo các yêu cầu về quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả và phân bổ hài hòa lợi ích sử dụng nước giữa các địa phương, giữa vùng thượng lưu và hạ lưu trong thời kỳ quy hoạch.

Trong đó, các đại biểu đã tập trung thảo luận, chia sẻ về các khó khăn, mức độ căng thẳng về nguồn cung cấp nước cho các mục đích sử dụng tại các địa phương/vùng, tiểu vùng và hạ lưu các công trình hồ chứa thủy lợi, thủy điện; các vấn đề mâu thuẫn, phát sinh trong quá trình vận hành, trong hoạt động khai thác, sử dụng nước; nguyên nhân và giải pháp khắc phục; các vấn đề tồn tại đối với việc sử dụng nước hạ du sau khi công trình thủy điện An Khê – Ka Nak chuyển nước; vấn đề tích nước cuối mùa lũ của các hồ chứa lớn trên lưu vực sông Ba, giải pháp phối hợp, vận hành, điều tiết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nước; …

Bên cạnh đó, các đại biểu cũng thảo luận chuyên sâu đối với các vấn đề trong bảo vệ tài nguyên nước lưu vực sông Ba và các vấn đề trong phòng, chống tác hại do nước gây ra, đặc biệt là các giải pháp tại các khu vực thường xuyên xảy ra tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; khu vực và yêu cầu bảo vệ nguồn nước; vấn đề công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt và các biện pháp bảo vệ chất lượng nước sinh hoạt…

Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn

Tham vấn lập Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050

 
Trang 12345678910

Trang 10 trong tổng số 40 trang

Video sự kiện

You need Flash player 6+ and JavaScript enabled to view this video.

Playlist: 0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23

1.2024

2.2024

 

  • Tin mới nhất
  • Tin xem nhiều nhất

Liên kết web

Bộ Tài nguyên và Môi trường Cục quản lý tài nguyên nước Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Tổng cục địa chất và khoáng sản Dự án BRG Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam Ủy ban sông Mê Kông Hội địa chất thủy văn Việt Nam

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay955
mod_vvisit_counterTrong tuần3054
mod_vvisit_counterTrong tháng29244
mod_vvisit_counterTất cả7649577

We have: 10 guests online