(TN&MT) - Với mong muốn quản trị, quản lý sử dụng nước hiệu quả, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển xã hội (CSRD, tổ chức phi chính phủ, trụ sở ở Thừa Thiên – Huế) vừa tổ chức “Hội thảo về An ninh nước trong khuôn khổ Luật Tài nguyên nước 2023 sửa đổi” tại TP. Huế.
Hội thảo nằm trong dự án “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất định hướng phát triển thuỷ sản - mô hình nuôi cá lồng tại huyện A Lưới”, được UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế phê duyệt và giao CSRD thực hiện, do Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia (DFAT) và Cơ quan Hợp tác và Phát triển Thụy Sĩ (SDC) tài trợ thông qua tổ chức OXFAM Việt Nam; với mục tiêu nâng cao năng lực của cộng đồng trong quản trị nước và thủy sản, phát triển sinh kế của địa phương với sự tham gia của phụ nữ, hình thành hợp tác bền vững giữa các bên trong việc hỗ trợ các mô hình sinh kế tại địa phương.
“Hội thảo về An ninh nước trong khuôn khổ Luật Tài nguyên nước 2023 sửa đổi” do CSRD tổ chức
Tại Hội thảo, TS. Đào Trọng Tứ - Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển bền vững tài nguyên nước và Thích nghi Biến đổi khí hậu (CEWAREC) cho rằng, Luật Tài nguyên nước (TNN) sửa đổi năm 2023 đã góp phần tạo những chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng TNN; TNN được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, nêu bật một số thông tin về tình hình quản trị TNN 2023 về lưu vực sông A Sáp với những thuận lợi, khó khăn; những khuyến nghị đề xuất, như tăng cường tuyên truyền giáo dục, đẩy mạnh sự tham gia của người dân địa phương, trong đó có sự chia sẻ, hỗ trợ chính sách để khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN trong phát triển kinh tế- xã hội có hiệu quả.
Lãnh đạo các đơn vị, tổ chức liên quan như Sở TN&MT, Chi cục Thuỷ sản tỉnh, huyện A Lưới đã thông tin các quy hoạch về TNN ở địa phương; lập, ban hành danh mục nguồn nước mặt nội tỉnh, danh mục hồ, ao, đầm không được san lấp; quy trình quản lý cấp phép nuôi trồng thuỷ sản... cũng như kế hoạch hành động nâng cao năng lực quản lý nhà nước về nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh và huyện A Lưới.
Hội thảo giúp nâng cao quản lý và sử dụng tài nguyên nước để đảm bảo đời sống
Tại Hội thảo, trên cơ sở các quy định của Luật TNN sửa đổi năm 2023 và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật, các chuyên gia đã trao đổi, giải đáp các vướng mắc của đại biểu trong quá trình triển khai các Luật TNN 2023 và các nghị định, thông tư hướng dẫn luật tại địa phương. Đặc biệt đề xuất các mô hình khai thác sử dụng nước bền vững lưu vực sông A Sáp trong các lĩnh vực, nhất là người dân huyện A Lưới đang hưởng lợi dự án “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất định hướng phát triển thuỷ sản - mô hình nuôi cá lồng tại huyện A Lưới”.
Huyện miền núi A Lưới có 2 con sông chảy sang Lào là A Sáp và A Lin. Trong đó tài nguyên thủy sản ở lưu vực sông A Sáp đa dạng, cộng đồng ven sông này đang gặp nhiều khó khăn liên quan đến quản lý và sử dụng tài nguyên nước để đảm bảo đời sống. Việc sử dụng hiệu quả tài nguyên nước ở vùng thượng lưu không chỉ đem lại nguồn dinh dưỡng và thu nhập bền vững cho người dân ở đây mà còn góp phần vào bảo tồn hệ sinh thái và duy trì đa dạng sinh học cho toàn bộ lưu vực.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
(TN&MT) - Ngày 18/10, tại TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) phối hợp với Cơ quan Phát triển Pháp, Liên minh châu Âu và UBND tỉnh Lâm Đồng tổ chức Hội nghị phổ biến, tuyên truyền Luật Tài nguyên nước số 2023 và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật. Thừa ủy quyền của Lãnh đạo Bộ TN&MT, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh chủ trì Hội thảo.
Đến dự Hội thảo, về phía tỉnh Lâm Đồng có GS.TS Trần Hồng Thái - Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh; ông Nguyễn Ngọc Phúc - Phó Chủ tịch UBND tỉnh, cùng lãnh đạo các sở, ngành liên quan.
Cùng dự Hội nghị có ông Tạ Quang Vinh, Cục trưởng Cục Hạ tầng kĩ thuật, Bộ Xây Dựng; ông Hervé Conan, Giám đốc Cơ quan phát triển Pháp tại Việt Nam.
Các đại biểu tham dự Hội nghị
Tham dự Hội nghị có gần 400 đại biểu là lãnh đạo các đơn vị, báo cáo viên trực thuộc Cục Quản lý tài nguyên nước; đại diện các Bộ, Sở TN&MT, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của 17 tỉnh, thành phố thuộc khu vực miền Trung và Tây Nguyên; đại diện Lãnh đạo và cán bộ phụ trách của 180 tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước trong phạm vi cả nước; đại diện các trường đại học, viện nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực tài nguyên nước.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cho biết, Luật Tài nguyên nước 2023 và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành với nhiều nội dung quan trọng, đột phá, trong đó việc quản lý tài nguyên nước được tiếp cận theo xu hướng hiện đại và hướng tới mục tiêu quan trọng nhất là “bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia”.
Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh phát biểu tại Hội nghị
Đặc biệt, Luật Tài nguyên nước và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật rất chú trọng tới các nội dung quan trọng như: điều hòa, phân phối tài nguyên nước; hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số; chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế; đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực tài nguyên nước; phục hồi, làm sống lại các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt; phân công, phân cấp triệt để cho các địa phương; quy định rõ trách nhiệm các Bộ, địa phương liên quan bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý tài nguyên nước….
Theo Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh, để đảm bảo Luật Tài nguyên nước được triển khai đồng bộ, hiệu lực hiệu quả, thông suốt từ Trung ương đến địa phương, ngay sau khi Luật được ban hành, Chính phủ đã ban hành 02 Nghị định và Bộ TN&MT đã ban hành 03 Thông tư hướng dẫn thi hành Luật.
Luật Tài nguyên nước và các văn bản quy định chi tiết được ban hành đã quy định trách nhiệm cụ thể của các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương, trong đó Luật đã giao cho địa phương thực thi 28 nội dung để tổ chức thi hành Luật.
Ông Châu Trần Vĩnh cũng cho biết, tiếp nối công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tài nguyên nước, Bộ TN&MT phối hợp với Ủy ban nhân tỉnh Lâm Đồng để tổ chức Hội nghị phổ biến, tuyên truyền Luật Tài nguyên nước tại Thành phố Đà Lạt ngày hôm nay với sự tham gia của đại diện Lãnh đạo 17 Sở TN&MT các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây nguyên, đại diện lãnh đạo các Sở, ban ngành của tỉnh Lâm Đồng và gần 180 tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước trên phạm vi cả nước nhằm chỉ rõ những điểm mới, trách nhiệm thực hiện của các cấp, ngành trong quản lý tài nguyên nước.
“Hội nghị là cơ hội tốt để chúng ta cùng chia sẻ, trao đổi nhằm hướng đến mục tiêu cao nhất đó là bảo đảm an ninh nguồn nước, bảo vệ, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên nước để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới” - Cục trưởng Châu Trần Vĩnh nhấn mạnh.
Quang cảnh Hội nghị
Cục trưởng Châu Trần Vĩnh đề nghị các báo cáo viên tập trung vào những nội dung cơ bản, những nội dung mới, trong đó nêu rõ trách nhiệm các Bộ, địa phương, tổ chức, cá nhân liên quan để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý tài nguyên nước. Đồng thời, đề nghị các đại biểu tham dự Hội nghị tập trung nghiên cứu tài liệu và trao đổi thẳng thắn những nội dung còn thắc mắc, vướng mắc trong quá trình triển khai nhằm cùng nhau tổ chức thực hiện hiệu quả Luật Tài nguyên nước 2023 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ông Nguyễn Ngọc Phúc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng phát biểu
Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Ngọc Phúc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng cho biết, tỉnh Lâm Đồng có diện tích gần 1 triệu ha, dân số trên 1,3 triệu người; nằm trên vùng cao nguyên Lang Biang, có độ cao từ 800 - 1500m so với mặt nước biển và là đầu lưu vực của hệ thống sông Đồng Nai; với lượng nước mặt và nước ngầm dồi dào đảm bảo về mặt chất lượng và khối lượng hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nước sinh hoạt cho địa phương và các tỉnh trong khu vực và là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển thủy điện, du lịch liên quan đến thác, hồ cảnh quan với nhiều sản phẩm du lịch đặc thù như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch mạo hiểm.
Tuy nhiên, những năm gần đây với dân số ngày càng gia tăng, áp lực nước cho sinh hoạt, nông nghiệp; đặc biệt là tác động do biến đổi khí hậu gây ra, Lâm Đồng cũng như các địa phương trong nước đang phải đối mặt với an ninh nguồn nước, với chất lượng nước có nguy cơ ô nhiễm cao, số lượng nguồn nước ngày càng suy giảm nghiêm trọng hoặc trong những thời điểm mưa nhiều gậy ngập úng và sạt lở đất ảnh hưởng rất lớn đến tài sản và nhân mạng người dân.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Ngọc Phúc nhấn mạnh, để khai thác, sử dụng, quản lý, bảo vệ tài nguyên nước hiệu quả, bền vững, các văn bản thi hành Luật Tài nguyên nước 2023 sau khi được ban hành đã phát huy hiệu lực, hiệu quả về nhiều mặt, tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ, toàn diện trong quản lý, bảo vệ tài nguyên nước trên phạm vi cả nước, qua đó nâng cao hiệu lực thi hành, điều chỉnh các hành vi, cách ứng xử tích cực với tài nguyên nước; góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước trong phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, Hội nghị hôm nay rất quan trọng để triển khai thi hành pháp luật về tài nguyên nước; giải đáp thắc mắc, thảo luận hướng đến sử dụng nước bền vững, hiệu quả và đúng pháp luật.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe các báo cáo viên thuộc Cục Quản lý tài nguyên nước giới thiệu Luật Tài nguyên nước 2023 và những điểm mới của Luật; những nội dung chính của Nghị định số 53/2024/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Tài nguyên nước; Nghị định số 54/2024/NĐ-CP quy định việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước;
Thông tư số 03/2024/TT-BTNMT quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước 2023 và Thông tư số 04/2024/TT-BTNMT quy định việc kiểm tra việc chấp hành pháp luật về tài nguyên nước và thẩm định, nghiệm thu kết quả hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước.
Trên cơ sở các nội dung được giới thiệu, các đại biểu tham dự đã trao đổi, chia sẻ các giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong quản lý tài nguyên nước tại thực tiễn của địa phương.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
(TN&MT) - Là địa phương có tài nguyên nước dưới đất khá phong phú, tỉnh Lạng Sơn đã chủ động, tích cực triển khai các giải pháp bảo vệ, khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước ngầm (nước dưới đất), phòng chống nguy cơ suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
Cần tuyên truyền nâng cao ý thức sử dụng nước ngầm
Theo phương án khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trữ lượng có thể khai thác của các tầng chứa nước ngầm trên địa bàn tỉnh là trên 530.000 m3/ngày; tài nguyên dự báo nước dưới đất là hơn 1,7 triệu m3/ngày; tổng lượng bổ cập nước dưới đất đạt trên 1,1 triệu m3/ngày.
Tỉnh Lạng Sơn hiện có gần 60 trạm bơm nước ngầm, giếng khoan cấp nước với tổng lưu lượng nước được cấp phép khai thác là hơn 24.400 m3/ngày/đêm. Nhìn chung, chất lượng nước dưới đất trong các tầng chứa nước trên địa bàn tỉnh tương đối tốt, đảm bảo phục vụ mục đích sinh hoạt của người dân trên địa bàn.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của tài nguyên nước đối với sự phát triển kinh tế xã hội, từ năm 2016, UBND tỉnh đã phê duyệt Dự án Điều tra, khoanh định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; thường xuyên rà soát, điều chỉnh bổ sung phù hợp với tình hình thực tiễn; phê duyệt phương án tổ chức thực hiện việc hạn chế khai thác nước dưới đất với diện tích trên 124.000 km2 thuộc 4 vùng, 159 khu vực hạn chế.
Phê duyệt danh mục 55 vùng phải đăng ký khai thác nước dưới đất; phê duyệt phạm vi 59 vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt của các công trình. Yêu cầu các tổ chức, cá nhân trước khi khai thác phải nghiên cứu, đánh giá chi tiết đặc điểm, mức độ đáp ứng của tầng chứa nước cho từng quy mô khai thác. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện tại các địa phương vẫn còn những tồn tại, hạn chế.
Ông Bành Văn Dân - Trưởng phòng TN&MT huyện Văn Quan cho biết: những năm qua, Phòng TN&MT đã tham mưu UBND huyện chú trọng tuyên truyền, nâng cao nhận thức người dân về chấp hành nghiêm các quy định trong khai thác nguồn nước dưới đất; Tăng cường kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện. Tuy nhiên, trên địa bàn vẫn còn hiện tượng người dân khoan giếng nhưng không đăng ký khai thác với cơ quan chức năng. Từ đầu năm đến nay, huyện đã kiểm tra, xử lý 3 trường hợp vi phạm…
Ông H. V. T, xã Đồng Giáp, huyện Văn Quan cho biết, giếng khoan nhà tôi được dùng để sinh hoạt và tưới tiêu mảnh vườn nhỏ của gia đình thôi, không sản xuất, kinh doanh gì. Trước đây, gia đình cũng không nắm được quy định là phải đăng ký khai thác mới được dùng, vì giếng trên đất vườn của nhà nên tôi nghĩ cứ làm thôi. Vừa qua, được cán bộ tuyên truyền, nhắc nhở, tôi đã lập hồ sơ để thực hiện đăng ký khai thác nước ngầm theo quy định.
Lạng Sơn hiện có gần 50 giấy phép khai thác nước dưới đất còn hiệu lực, đã cấp gần 30 giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất...
" Lạng Sơn hiện có 4 giấy phép thăm dò nước dưới đất; gần 50 giấy phép khai thác nước dưới đất còn hiệu lực; đã cấp gần 30 giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất. Từ năm 2023 đến nay, Sở TN&MT đã thực hiện thanh, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên nước gần 20 đơn vị; phát hiện, xử phạt hành chính 1 đơn vị với số tiền 40 triệu đồng."
Chấn chỉnh, phòng ngừa nguy cơ ô nhiễm
Theo Sở TN&MT Lạng Sơn, việc người dân tự ý khoan giếng mà không đăng ký với cơ quan chức năng vẫn xảy ra tại các huyện, thành phố. Nguyên nhân chủ yếu là do một bộ phận người dân vẫn chưa nhận thức đầy đủ về việc phải chấp hành nghiêm các quy định, tự ý khoan giếng để sử dụng, nhất là tại khu vực nông thôn… Bên cạnh đó, toàn tỉnh cũng chưa có số liệu thống kê cụ thể về các công trình giếng khoan. Chế tài xử phạt vi phạm với hành vi này chưa cao, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm.
Nhằm chấn chỉnh công tác quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên nước ngầm, nâng cao hiệu quả phòng ngừa suy thoái vùng cấp nước dưới đất, hàng năm, Sở TN&MT đã ban hành văn bản gửi các địa phương yêu cầu thực hiện nghiêm các nhiệm vụ về tăng cường quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Rà soát các đối tượng khai thác, sử dụng nước, hành nghề khoan nước dưới đất trên địa bàn thuộc đối tượng cấp phép, đăng ký khai thác nước dưới đất.
Qua tổng hợp từ các địa phương, UBND các huyện, thành phố đã chủ động triển khai kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên nước. Các lỗi vi phạm được phát hiện chủ yếu là không lập hồ sơ đề nghị cấp giấy phép theo quy định; không thông báo bằng văn bản về vị trí, quy mô, thời gian dự kiến thi công công trình khoan nước cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền; không thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo định kỳ theo quy định...
Hiện nay, Sở TN&MT đang tiếp tục tham mưu UBND tỉnh giám sát chặt chẽ những khu vực có nguy cơ cao gây ô nhiễm nguồn nước như các khu công nghiệp, làng nghề, khu vực tuyển khoáng, khu đông dân dư, khu chôn lấp chất thải, nghĩa trang, bãi rác… nếu phát hiện cần có biện pháp di dời, phòng ngừa ô nhiễm.
Tỉnh Lạng Sơn đã khoanh định ranh giới vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt của công trình, tiếp tục giám sát chặt chẽ những khu vực có nguy cơ cao gây ô nhiễm nguồn nước.
Bên cạnh đó, đổi mới, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân nâng cao nhận thức trong việc bảo vệ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước dưới đất. Khoanh định ranh giới vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt của công trình. Tăng cường trách nhiệm của các hộ khai thác nước, nâng cao ý thức cộng đồng trong bảo vệ, sử dụng tiết kiệm tài nguyên nước dưới đất... Đồng thời, triển khai thu phí cấp quyền khai thác tài nguyên nước dưới đất theo đúng quy định.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 1117/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn đến năm 2050.
Phê duyệt quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2023- Ảnh 1.
Tài nguyên vùng bờ được quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững để phát triển toàn diện các ngành kinh tế biển
Theo Quyết định, mục tiêu cụ thể của quy hoạch là bảo vệ, duy trì và phục hồi hệ sinh thái, đa dạng sinh học và các giá trị khác của vùng bờ; tăng diện tích bảo tồn, bảo vệ giá trị tự nhiên, sinh thái biển, rừng ngập mặn tại vùng bờ, góp phần thực hiện mục tiêu đạt diện tích tối thiểu bằng 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia.
Sắp xếp, phân bố hợp lý không gian cho các ngành, lĩnh vực và giải quyết cơ bản các chồng lấn, mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ, bảo đảm khả năng phục hồi của hệ sinh thái, bảo vệ môi trường vùng bờ, góp phần đạt được các chỉ tiêu: 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt, 100% rác thải nhựa tại các bãi biển, khu du lịch biển và khu bảo tồn biển được thu gom và xử lý; 100% khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững, sinh thái, thông minh và an toàn, có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường.
Bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển, cải thiện sinh kế và nâng cao mức sống cho cộng đồng dân cư ven biển, không còn xã đặc biệt khó khăn ở vùng bờ, góp phần nâng thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân của cả nước; bảo vệ, bảo tồn các di sản văn hóa, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa biển, góp phần xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam toàn diện, phù hợp với xu thế thời đại.
Tầm nhìn đến năm 2050, tài nguyên vùng bờ được quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững để phát triển toàn diện các ngành kinh tế biển, góp phần đưa vùng bờ trở thành trung tâm phát triển kinh tế - văn hóa sôi động, thu hút đầu tư, là cửa ngõ kết nối không gian phát triển giữa đất liền với biển, kết nối giao thương giữa Việt Nam với quốc tế; xây dựng các vùng ven biển thành chỗ dựa vững chắc để tiến ra biển và tạo động lực cho các vùng khác trong cả nước cùng phát triển; có môi trường trong lành, an toàn và các giá trị tự nhiên, sinh thái, cảnh quan, văn hóa, lịch sử được bảo vệ, giữ gìn và phát triển; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, hướng tới mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn, đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Phạm vi quy hoạch
Phạm vi quy hoạch vùng bờ bao gồm vùng biển ven bờ và vùng đất ven biển, cụ thể:
a) Vùng biển ven bờ có ranh giới trong là đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm (18,6 năm) và ranh giới ngoài cách đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm 6 hải lý.
b) Vùng đất ven biển bao gồm các xã, phường, thị trấn có biển thuộc 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính vẹn toàn của các hệ sinh thái, sinh cảnh quan trọng và quan tâm đầy đủ đến sự tương tác mạnh giữa đất liền và biển, phạm vi không gian vùng bờ ở một số khu vực được mở rộng hơn cả về phía đất liền và biển.
Phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên vùng đất ven biển
Các vùng đất ven biển và các hải đảo được sắp xếp, phân bổ theo Quy hoạch sử dụng đất quốc gia, phù hợp với Quy hoạch tổng thể quốc gia theo 4 vùng kinh tế - xã hội: vùng phía Bắc từ Quảng Ninh đến Ninh Bình; vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ từ Thanh Hóa đến Bình Thuận; vùng Đông Nam Bộ, gồm có Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh; vùng Tây Nam Bộ từ Tiền Giang đến Kiên Giang.
Để thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế biển xanh, bảo đảm hài hòa giữa các hoạt động trên đất liền và dưới biển, hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên trên các vùng đất ven biển được ưu tiên cho phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là tuyến hành lang đường bộ cao tốc, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị ven biển nhằm tạo đà, động lực thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế biển, kết nối vùng ven biển với các hải đảo, vùng kinh tế trọng điểm và cửa khẩu quốc tế. Thực hiện lấn biển ở những khu vực thích hợp, không làm suy thoái tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái, tính đa dạng sinh học và các giá trị văn hóa - lịch sử tại vùng bờ để tăng thêm không gian, quỹ đất cho phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.
Vùng đất ven biển phía Bắc
Khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh là trung tâm kinh tế biển hiện đại, mang tầm quốc tế, hàng đầu ở Đông Nam Á, là cửa ngõ, động lực phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng; khu vực Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình phát triển mạnh và bền vững kinh tế biển.
Về hạ tầng: Tập trung đầu tư và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng ven biển, nhất là tuyến đường bộ, đường sắt ven biển, đường kết nối cảng đến quốc lộ và cao tốc; nghiên cứu xây dựng các tuyến đường sắt mới kết nối các cảng biển, cửa khẩu quốc tế Móng Cái với Hà Nội. Phát triển các đô thị, điểm dân cư ven biển theo hướng hình thành chuỗi đô thị ven biển, gắn với phát triển kinh tế biển, liên kết chặt chẽ thông qua vành đai kinh tế ven biển.
Về các ngành kinh tế ưu tiên: Hình thành các khu du lịch quốc tế hóa cao ở Quảng Ninh (Vân Đồn, vịnh Hạ Long), phát triển Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của khu vực và thế giới; liên kết phát triển vùng du lịch Cát Bà - vịnh Hạ Long - Bái Tử Long - Vân Đồn thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, du lịch di sản thiên nhiên biển - đảo có tầm quốc tế ở châu Á - Thái Bình Dương.
Phát triển cảng biển quốc tế, vận tải biển viễn dương và trong nước, dịch vụ hàng hải, dịch vụ logistics đa phương thức với trung tâm là cụm cảng Hải Phòng - Quảng Ninh.
Vùng đất ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ
Vùng đất ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ là cửa ngõ ra biển của vùng Tây Nguyên và nước bạn Lào, có khả năng phát triển nhanh, mạnh, bền vững về kinh tế biển với các khu kinh tế ven biển hiện đại, hệ thống đô thị ven biển thông minh, thân thiện với môi trường, có khả năng chống chịu cao với thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu; các giá trị văn hóa, lịch sử và các hệ sinh thái được bảo vệ, bảo tồn và phát huy.
Về hạ tầng: Kết nối đồng bộ hệ thống giao thông với các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp, khu công nghệ cao Đà Nẵng và các cảng hàng không, cảng biển; hoàn thành tuyến đường bộ ven biển tại các địa phương trong vùng; nghiên cứu đầu tư, nâng cấp các tuyến đường cao tốc trục ngang kết nối cửa khẩu quốc tế với các cảng biển; tập trung nguồn lực phát triển các cảng biển có tiềm năng thành cảng biển đặc biệt, nhất là các cảng biển ở Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng và Khánh Hòa.
Về phát triển các ngành kinh tế ưu tiên: Tập trung phát triển mạnh kinh tế biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển, nhất là các ngành như du lịch và dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, chế biến dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác, nuôi trồng và khai thác thủy sản, công nghiệp ven biển, năng lượng tái tạo, các ngành kinh tế biển mới,... Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào 11 khu kinh tế ven biển hiện có.
Vùng đất ven biển Đông Nam Bộ
Vùng đất ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế biển mạnh có tầm quốc tế hàng đầu ở Đông Nam Á với các ngành, lĩnh vực ưu tiên: cảng biển, logistics, khai thác dầu khí, hóa dầu, du lịch biển, khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản.
Phát triển các loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, văn hóa, thể thao, các dịch vụ vui chơi giải trí chất lượng cao. Phát triển chuỗi đô thị du lịch ven biển theo hướng đô thị xanh.
Đầu tư hoàn thiện hệ thống đường ven biển; đẩy mạnh xây dựng khu vực cảng biển Cái Mép - Thị Vải - Sao Mai - Bến Đình, liên kết với cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó ưu tiên nguồn lực cho phát triển cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép - Thị Vải thành cảng quốc tế trung chuyển lớn, có tầm cỡ khu vực châu Á và quốc tế; nghiên cứu xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ; cải tạo cơ bản đạt cấp kỹ thuật các tuyến luồng đường thủy nội địa; hình thành các cụm cảng phục vụ nhu cầu thu gom, giải tỏa hàng hóa cho các cảng biển lớn trong vùng. Xây dựng khu thương mại tự do gắn với cảng biển tại khu vực Cái Mép Hạ, hình thành hệ sinh thái công nghiệp - dịch vụ hoàn chỉnh.
Vùng đất ven biển Tây Nam Bộ
Vùng đất ven biển Tây Nam Bộ gồm các trung tâm kinh tế biển mạnh của khu vực Đông Nam Á với phát triển công nghiệp xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, nhất là điện gió, điện mặt trời gắn với bảo vệ rừng và bờ biển; nuôi trồng, khai thác hải sản, dịch vụ hậu cần, hạ tầng nghề cá hiện đại phục vụ khai thác xa bờ, hình thành và phát triển du lịch sinh thái, góp phần chủ động phòng, tránh, giảm thiểu rủi ro thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Về hạ tầng: Hoàn thiện hệ thống giao thông kết nối với các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới; tập trung khai thác tốt các cảng biển, trong đó khu bến Trần Đề (cảng biển Sóc Trăng) định hướng quy hoạch tiềm năng thành cảng biển đặc biệt, đảm nhận vai trò cảng cửa ngõ vùng đồng bằng sông Cửu Long; nâng cấp, cải tạo, duy trì các tuyến luồng hàng hải, trong đó chú trọng các luồng hàng hải cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu, luồng hàng hải Trần Đề.
Về phát triển các ngành kinh tế ưu tiên: Phát triển công nghiệp khí, chế biến khí, điện khí, năng lượng tái tạo. Đẩy mạnh nuôi trồng, khai thác thủy sản tại khu vực ven biển theo hướng hiện đại, bền vững; phát triển công nghiệp chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần, hạ tầng nghề cá; tái tạo nguồn lợi thủy sản và bảo vệ nguồn đa dạng sinh học biển.
Phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên vùng biển ven bờ
Việc phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên vùng biển ven bờ được thực hiện trên cơ sở chức năng của các khu vực và nguyên tắc về xử lý chồng lấn theo thứ tự ưu tiên như sau: (1) Nhu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh; (2) Nhu cầu bảo vệ, bảo tồn các hệ sinh thái biển; (3) Nhu cầu cho các hoạt động phát triển kinh tế. Đối với chồng lấn giữa các hoạt động cho mục đích phát triển kinh tế, định hướng ưu tiên sử dụng biển xác định theo thứ tự: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế mới.
Trong trường hợp cần thiết, trên cơ sở đề xuất của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các bộ, ngành có liên quan, Bộ Tài nguyên và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh thứ tự ưu tiên sử dụng đối với biển ven bờ cụ thể dựa trên việc phân tích, đánh giá tính hiệu quả, chi phí lợi ích về kinh tế, xã hội, môi trường và khả năng hỗ trợ bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển.
6 giải pháp thực hiện quy hoạch
Quyết định đề ra 6 giải pháp thực hiện quy hoạch gồm: 1. Giải pháp về quản lý; 2. Giải pháp về môi trường, khoa học và công nghệ; 3. Giải pháp về tuyên truyền, nâng cao nhận thức; 4. Giải pháp về đào tạo, tăng cường năng lực; 5. Giải pháp về tài chính đầu tư; 6. Giải pháp hợp tác quốc tế.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển tổ chức, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch; định kỳ tổ chức đánh giá, rà soát, điều chỉnh quy hoạch theo quy định; công bố quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch.
Đồng thời xây dựng và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu thực hiện quy hoạch; cung cấp thông tin về quy hoạch vào hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch theo quy định. Phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để bố trí ngân sách hàng năm; tổng hợp trình cấp có thẩm quyền giao kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm để thực hiện quy hoạch.
Nguồn: baochinhphu.vn
|
Theo phản ánh của cử tri, tình trạng hạn hán, xâm nhập nước mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển, suy giảm môi trường sinh thái và nguồn lợi thủy sản diễn ra ngày càng nhiều với tính chất nghiêm trọng hơn; gây ảnh hưởng lớn đến an ninh nguồn nước và trực tiếp tác động đến các hoạt động kinh tế và đời sống của người dân, đặc biệt là ở khu vực đồng bằng Sông Cửu Long. Cử tri kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ liên quan, quan tâm nghiên cứu, xây dựng chiến lược lâu dài đối với việc dự trữ nguồn nước cho khu vực đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung.
Vấn đề cử tri nêu, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết: Luật Tài nguyên nước năm 2023 có 4 nhóm chính sách mới, gồm: Chính sách về bảo đảm an ninh nguồn nước; Xã hội hóa ngành nước; Kinh tế tài nguyên nước và bảo vệ tài nguyên nước; Phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra được thể hiện xuyên suốt trong Luật.
Trong đó, quy định việc tích trữ nước là một trong những giải pháp ưu tiên để đảm bảo chủ động tích trữ, điều hòa, phân phối nguồn nước, đáp ứng yêu cầu sử dụng nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước trên cả nước nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
Luật Tài nguyên nước 2023 bổ sung các dự án phát triển, tích trữ nước và phục hồi nguồn nước vào đối tượng được ưu đãi đầu tư.
Ngoài ra, Luật Tài nguyên nước 2023 đã bổ sung một số điều trong Luật Đầu tư năm 2020, đưa ngành, nghề thu gom, xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải; phát triển, tích trữ nước và phục hồi nguồn nước vào nhóm được ưu đãi đầu tư. Đồng thời, ngành nghề này được đầu tư theo phương thức đối tác công tư nhằm khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư tư nhân trong hoạt động phát triển, tích trữ và phục hồi nguồn nước.
Đồng thời, Luật Tài nguyên nước 2023 có nhiều quy định nhằm thu hút đầu tư xây dựng các công trình tích trữ nước đa mục tiêu, trong đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đầu tư, quản lý các công trình tích trữ nước phục vụ nông nghiệp, Bộ Xây dựng đầu tư, quản lý các công trình tích trữ nước phục vụ cấp nước sinh hoạt.
Cũng theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ sẽ phối hợp với Bộ Xây dựng nghiên cứu, cụ thể hóa các chính sách liên quan đến tích trữ, dự phòng nguồn nước cấp, đặc biệt là cho mục đích sinh hoạt trong Luật Cấp, thoát nước.
Theo Điều 15 Luật Đầu tư 2020, các dự án thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư sẽ được hưởng hình thức ưu đãi sau: Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, bao gồm áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn thuế, giảm thuế và các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất; khấu hao nhanh, tăng mức chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
|