Tin tức sự kiện

Tuyên truyền Luật Tài nguyên nước cho các tỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên

(TN&MT) - Ngày 18/10, tại TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) phối hợp với Cơ quan Phát triển Pháp, Liên minh châu Âu và UBND tỉnh Lâm Đồng tổ chức Hội nghị phổ biến, tuyên truyền Luật Tài nguyên nước số 2023 và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật. Thừa ủy quyền của Lãnh đạo Bộ TN&MT, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh chủ trì Hội thảo.

Đến dự Hội thảo, về phía tỉnh Lâm Đồng có GS.TS Trần Hồng Thái - Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh; ông Nguyễn Ngọc Phúc - Phó Chủ tịch UBND tỉnh, cùng lãnh đạo các sở, ngành liên quan.

Cùng dự Hội nghị có ông Tạ Quang Vinh, Cục trưởng Cục Hạ tầng kĩ thuật, Bộ Xây Dựng; ông Hervé Conan, Giám đốc Cơ quan phát triển Pháp tại Việt Nam.

z5943003611334_b5de13515a88ba6db9d2f52ab5687395.jpgCác đại biểu tham dự Hội nghị

Tham dự Hội nghị có gần 400 đại biểu là lãnh đạo các đơn vị, báo cáo viên trực thuộc Cục Quản lý tài nguyên nước; đại diện các Bộ, Sở TN&MT, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của 17 tỉnh, thành phố thuộc khu vực miền Trung và Tây Nguyên; đại diện Lãnh đạo và cán bộ phụ trách của 180 tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước trong phạm vi cả nước; đại diện các trường đại học, viện nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực tài nguyên nước.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cho biết, Luật Tài nguyên nước 2023 và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành với nhiều nội dung quan trọng, đột phá, trong đó việc quản lý tài nguyên nước được tiếp cận theo xu hướng hiện đại và hướng tới mục tiêu quan trọng nhất là “bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia”.

z5943003284301_af3977c848ae288bf864cc547bfd4841.jpgCục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh phát biểu tại Hội nghị

Đặc biệt, Luật Tài nguyên nước và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật rất chú trọng tới các nội dung quan trọng như: điều hòa, phân phối tài nguyên nước; hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số; chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế; đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực tài nguyên nước; phục hồi, làm sống lại các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt; phân công, phân cấp triệt để cho các địa phương; quy định rõ trách nhiệm các Bộ, địa phương liên quan bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý tài nguyên nước….

Theo Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh, để đảm bảo Luật Tài nguyên nước được triển khai đồng bộ, hiệu lực hiệu quả, thông suốt từ Trung ương đến địa phương, ngay sau khi Luật được ban hành, Chính phủ đã ban hành 02 Nghị định và Bộ TN&MT đã ban hành 03 Thông tư hướng dẫn thi hành Luật.

Luật Tài nguyên nước và các văn bản quy định chi tiết được ban hành đã quy định trách nhiệm cụ thể của các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương, trong đó Luật đã giao cho địa phương thực thi 28 nội dung để tổ chức thi hành Luật.

Ông Châu Trần Vĩnh cũng cho biết, tiếp nối công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tài nguyên nước, Bộ TN&MT phối hợp với Ủy ban nhân tỉnh Lâm Đồng để tổ chức Hội nghị phổ biến, tuyên truyền Luật Tài nguyên nước tại Thành phố Đà Lạt ngày hôm nay với sự tham gia của đại diện Lãnh đạo 17 Sở TN&MT các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây nguyên, đại diện lãnh đạo các Sở, ban ngành của tỉnh Lâm Đồng và gần 180 tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước trên phạm vi cả nước nhằm chỉ rõ những điểm mới, trách nhiệm thực hiện của các cấp, ngành trong quản lý tài nguyên nước.

“Hội nghị là cơ hội tốt để chúng ta cùng chia sẻ, trao đổi nhằm hướng đến mục tiêu cao nhất đó là bảo đảm an ninh nguồn nước, bảo vệ, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên nước để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới” - Cục trưởng Châu Trần Vĩnh nhấn mạnh.

1_20241018121128.jpgQuang cảnh Hội nghị

Cục trưởng Châu Trần Vĩnh đề nghị các báo cáo viên tập trung vào những nội dung cơ bản, những nội dung mới, trong đó nêu rõ trách nhiệm các Bộ, địa phương, tổ chức, cá nhân liên quan để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý tài nguyên nước. Đồng thời, đề nghị các đại biểu tham dự Hội nghị tập trung nghiên cứu tài liệu và trao đổi thẳng thắn những nội dung còn thắc mắc, vướng mắc trong quá trình triển khai nhằm cùng nhau tổ chức thực hiện hiệu quả Luật Tài nguyên nước 2023 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

z5943003304655_336cd13a7367b9d246f911501da840f5.jpgÔng Nguyễn Ngọc Phúc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng phát biểu

Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Ngọc Phúc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng cho biết, tỉnh Lâm Đồng có diện tích gần 1 triệu ha, dân số trên 1,3 triệu người; nằm trên vùng cao nguyên Lang Biang, có độ cao từ 800 - 1500m so với mặt nước biển và là đầu lưu vực của hệ thống sông Đồng Nai; với lượng nước mặt và nước ngầm dồi dào đảm bảo về mặt chất lượng và khối lượng hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nước sinh hoạt cho địa phương và các tỉnh trong khu vực và là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển thủy điện, du lịch liên quan đến thác, hồ cảnh quan với nhiều sản phẩm du lịch đặc thù như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch mạo hiểm.

Tuy nhiên, những năm gần đây với dân số ngày càng gia tăng, áp lực nước cho sinh hoạt, nông nghiệp; đặc biệt là tác động do biến đổi khí hậu gây ra, Lâm Đồng cũng như các địa phương trong nước đang phải đối mặt với an ninh nguồn nước, với chất lượng nước có nguy cơ ô nhiễm cao, số lượng nguồn nước ngày càng suy giảm nghiêm trọng hoặc trong những thời điểm mưa nhiều gậy ngập úng và sạt lở đất ảnh hưởng rất lớn đến tài sản và nhân mạng người dân.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Ngọc Phúc nhấn mạnh, để khai thác, sử dụng, quản lý, bảo vệ tài nguyên nước hiệu quả, bền vững, các văn bản thi hành Luật Tài nguyên nước 2023 sau khi được ban hành đã phát huy hiệu lực, hiệu quả về nhiều mặt, tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ, toàn diện trong quản lý, bảo vệ tài nguyên nước trên phạm vi cả nước, qua đó nâng cao hiệu lực thi hành, điều chỉnh các hành vi, cách ứng xử tích cực với tài nguyên nước; góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước trong phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, Hội nghị hôm nay rất quan trọng để triển khai thi hành pháp luật về tài nguyên nước; giải đáp thắc mắc, thảo luận hướng đến sử dụng nước bền vững, hiệu quả và đúng pháp luật.

11_20241018121526_20241018130302(1).jpgCác đại biểu chụp ảnh lưu niệm

Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe các báo cáo viên thuộc Cục Quản lý tài nguyên nước giới thiệu Luật Tài nguyên nước 2023 và những điểm mới của Luật; những nội dung chính của Nghị định số 53/2024/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Tài nguyên nước; Nghị định số 54/2024/NĐ-CP quy định việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước;

Thông tư số 03/2024/TT-BTNMT quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước 2023 và Thông tư số 04/2024/TT-BTNMT quy định việc kiểm tra việc chấp hành pháp luật về tài nguyên nước và thẩm định, nghiệm thu kết quả hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước.

Trên cơ sở các nội dung được giới thiệu, các đại biểu tham dự đã trao đổi, chia sẻ các giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong quản lý tài nguyên nước tại thực tiễn của địa phương.

Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn

Tuyên truyền Luật Tài nguyên nước cho các tỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên

 

Cảnh báo an ninh nguồn nước của châu Âu đang bị đe dọa

Ảnh minh họa: CNN

Ảnh minh họa: CNN

Ô nhiễm, suy thoái môi trường sống, biến đổi khí hậu và việc khai thác quá mức các nguồn nước ngọt đang khiến hơn 60% lượng nước mặt của châu Âu ở tình trạng xấu.

Nguồn nước mặt là nguồn nước tồn tại trên bề mặt Trái Đất như ao, hồ, sông, suối....

Trong báo cáo được công bố ngày 15/10, Cơ quan Môi trường châu Âu (EEA) đã phân tích 120.000 vùng nước mặt và 3,8 triệu km2 khu vực nước ngầm tại 19 quốc gia của Liên minh châu Âu (EU) và Na Uy. Kết quả cho thấy chỉ có 37% các vùng nước mặt của châu Âu đạt tiêu chuẩn về chất lượng sinh thái, tức ở mức "tốt" hoặc "cao".  Đây là con số đáng lo ngại cho thấy tình trạng suy thoái nghiêm trọng của các hệ sinh thái sông, hồ và biển. Nguyên nhân chủ yếu do ô nhiễm không khí, như việc đốt than và khí thải từ ô tô, cũng như các hoạt động nông nghiệp, nơi chất thải đổ ra làm ô nhiễm đất.

Ảnh minh họa: CNN
Dữ liệu do các quốc gia thành viên EU báo cáo trong giai đoạn 2015-2021 cũng cho thấy chỉ có 29% các vùng nước mặt đạt tiêu chuẩn về chất lượng hóa học ở mức "tốt", nghĩa là không bị ô nhiễm quá mức từ các chất dinh dưỡng hóa học và các chất độc hại như "hóa chất vĩnh cửu" PFAS và vi nhựa.

Nguồn nước ngầm của châu Âu - nguồn cung cấp nước chính cho lục địa này - có kết quả khả quan hơn, với 77% vùng nước ngầm đạt tiêu chuẩn hóa học ở mức "tốt".

EEA cho biết các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm hạn hán và lũ lụt khắc nghiệt, và việc khai thác quá mức các nguồn nước ngọt đang gây sức ép lên các hồ, sông, vùng nước ven biển và nước ngầm của châu Âu ở mức "chưa từng có". Cơ quan này khuyến cáo ngành nông nghiệp châu Âu cần tăng cường sử dụng các phương thức canh tác theo hướng hữu cơ và thúc đẩy nông nghiệp sinh thái bền vững, kết hợp với sự thay đổi trong thói quen ăn uống của người dân. Các chính phủ cũng được khuyến nghị ưu tiên giảm lượng nước tiêu thụ và khôi phục hệ sinh thái, đặc biệt cần giảm 50% việc sử dụng thuốc trừ sâu từ nay đến năm 2030.

Nguồn: Đài Trang (TTXVN)

Cảnh báo an ninh nguồn nước của châu Âu đang bị đe dọa

 

Lạng Sơn: Bảo vệ nghiêm ngặt tài nguyên nước ngầm

(TN&MT) - Là địa phương có tài nguyên nước dưới đất khá phong phú, tỉnh Lạng Sơn đã chủ động, tích cực triển khai các giải pháp bảo vệ, khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước ngầm (nước dưới đất), phòng chống nguy cơ suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.

Cần tuyên truyền nâng cao ý thức sử dụng nước ngầm

Theo phương án khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trữ lượng có thể khai thác của các tầng chứa nước ngầm trên địa bàn tỉnh là trên 530.000 m3/ngày; tài nguyên dự báo nước dưới đất là hơn 1,7 triệu m3/ngày; tổng lượng bổ cập nước dưới đất đạt trên 1,1 triệu m3/ngày.

Tỉnh Lạng Sơn hiện có gần 60 trạm bơm nước ngầm, giếng khoan cấp nước với tổng lưu lượng nước được cấp phép khai thác là hơn 24.400 m3/ngày/đêm. Nhìn chung, chất lượng nước dưới đất trong các tầng chứa nước trên địa bàn tỉnh tương đối tốt, đảm bảo phục vụ mục đích sinh hoạt của người dân trên địa bàn.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của tài nguyên nước đối với sự phát triển kinh tế xã hội, từ năm 2016, UBND tỉnh đã phê duyệt Dự án Điều tra, khoanh định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; thường xuyên rà soát, điều chỉnh bổ sung phù hợp với tình hình thực tiễn; phê duyệt phương án tổ chức thực hiện việc hạn chế khai thác nước dưới đất với diện tích trên 124.000 km2 thuộc 4 vùng, 159 khu vực hạn chế.

Phê duyệt danh mục 55 vùng phải đăng ký khai thác nước dưới đất; phê duyệt phạm vi 59 vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt của các công trình. Yêu cầu các tổ chức, cá nhân trước khi khai thác phải nghiên cứu, đánh giá chi tiết đặc điểm, mức độ đáp ứng của tầng chứa nước cho từng quy mô khai thác. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện tại các địa phương vẫn còn những tồn tại, hạn chế.

Ông Bành Văn Dân - Trưởng phòng TN&MT huyện Văn Quan cho biết: những năm qua, Phòng TN&MT đã tham mưu UBND huyện chú trọng tuyên truyền, nâng cao nhận thức người dân về chấp hành nghiêm các quy định trong khai thác nguồn nước dưới đất; Tăng cường kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện. Tuy nhiên, trên địa bàn vẫn còn hiện tượng người dân khoan giếng nhưng không đăng ký khai thác với cơ quan chức năng. Từ đầu năm đến nay, huyện đã kiểm tra, xử lý 3 trường hợp vi phạm…

Ông H. V. T, xã Đồng Giáp, huyện Văn Quan cho biết, giếng khoan nhà tôi được dùng để sinh hoạt và tưới tiêu mảnh vườn nhỏ của gia đình thôi, không sản xuất, kinh doanh gì. Trước đây, gia đình cũng không nắm được quy định là phải đăng ký khai thác mới được dùng, vì giếng trên đất vườn của nhà nên tôi nghĩ cứ làm thôi. Vừa qua, được cán bộ tuyên truyền, nhắc nhở, tôi đã lập hồ sơ để thực hiện đăng ký khai thác nước ngầm theo quy định.

anh-tnn-1.jpgLạng Sơn hiện có gần 50 giấy phép khai thác nước dưới đất còn hiệu lực, đã cấp gần 30 giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất...

" Lạng Sơn hiện có 4 giấy phép thăm dò nước dưới đất; gần 50 giấy phép khai thác nước dưới đất còn hiệu lực; đã cấp gần 30 giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất. Từ năm 2023 đến nay, Sở TN&MT đã thực hiện thanh, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên nước gần 20 đơn vị; phát hiện, xử phạt hành chính 1 đơn vị với số tiền 40 triệu đồng."

Chấn chỉnh, phòng ngừa nguy cơ ô nhiễm

Theo Sở TN&MT Lạng Sơn, việc người dân tự ý khoan giếng mà không đăng ký với cơ quan chức năng vẫn xảy ra tại các huyện, thành phố. Nguyên nhân chủ yếu là do một bộ phận người dân vẫn chưa nhận thức đầy đủ về việc phải chấp hành nghiêm các quy định, tự ý khoan giếng để sử dụng, nhất là tại khu vực nông thôn… Bên cạnh đó, toàn tỉnh cũng chưa có số liệu thống kê cụ thể về các công trình giếng khoan. Chế tài xử phạt vi phạm với hành vi này chưa cao, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm.

Nhằm chấn chỉnh công tác quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên nước ngầm, nâng cao hiệu quả phòng ngừa suy thoái vùng cấp nước dưới đất, hàng năm, Sở TN&MT đã ban hành văn bản gửi các địa phương yêu cầu thực hiện nghiêm các nhiệm vụ về tăng cường quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Rà soát các đối tượng khai thác, sử dụng nước, hành nghề khoan nước dưới đất trên địa bàn thuộc đối tượng cấp phép, đăng ký khai thác nước dưới đất.

Qua tổng hợp từ các địa phương, UBND các huyện, thành phố đã chủ động triển khai kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên nước. Các lỗi vi phạm được phát hiện chủ yếu là không lập hồ sơ đề nghị cấp giấy phép theo quy định; không thông báo bằng văn bản về vị trí, quy mô, thời gian dự kiến thi công công trình khoan nước cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền; không thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo định kỳ theo quy định...

Hiện nay, Sở TN&MT đang tiếp tục tham mưu UBND tỉnh giám sát chặt chẽ những khu vực có nguy cơ cao gây ô nhiễm nguồn nước như các khu công nghiệp, làng nghề, khu vực tuyển khoáng, khu đông dân dư, khu chôn lấp chất thải, nghĩa trang, bãi rác… nếu phát hiện cần có biện pháp di dời, phòng ngừa ô nhiễm.

anh-tnn-2.jpgTỉnh Lạng Sơn đã khoanh định ranh giới vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt của công trình, tiếp tục giám sát chặt chẽ những khu vực có nguy cơ cao gây ô nhiễm nguồn nước.

Bên cạnh đó, đổi mới, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân nâng cao nhận thức trong việc bảo vệ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước dưới đất. Khoanh định ranh giới vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt của công trình. Tăng cường trách nhiệm của các hộ khai thác nước, nâng cao ý thức cộng đồng trong bảo vệ, sử dụng tiết kiệm tài nguyên nước dưới đất... Đồng thời, triển khai thu phí cấp quyền khai thác tài nguyên nước dưới đất theo đúng quy định.

Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn

Lạng Sơn: Bảo vệ nghiêm ngặt tài nguyên nước ngầm

 

Biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao: Tác động và giải pháp

Mực nước biển dâng cao đang gây ra mối đe dọa toàn cầu, đặc biệt là đối với các đảo thấp và các thành phố ven biển. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến điều này và chúng ta có thể ứng phó như thế nào?

Chú thích ảnhBăng trôi gần đảo Kulusuk, Greenland. Ảnh: AFP/TTXVN

Theo Đài phát thanh Quốc tế Deutsche Welle (Đức), mực nước biển dâng cao đang trở thành một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với cuộc sống trên hành tinh, đặc biệt là đối với các đảo thấp và các thành phố ven biển. Câu hỏi đặt ra là: Biến đổi khí hậu có phải là nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này?

Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đã nhấn mạnh rằng “đại dương đang tràn bờ” trong chuyến thăm Tonga gần đây, chỉ ra rằng nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Nam Thái Bình Dương, đang phải đối mặt với nguy cơ mực nước biển dâng cao. Theo các nghiên cứu, mực nước biển toàn cầu đã tăng nhanh hơn kể từ đầu thế kỷ 20, với tốc độ ngày càng gia tăng trong những thập kỷ gần đây. Từ năm 1880 đến nay, mực nước biển đã dâng cao hơn 20 cm, và các nhà khoa học dự đoán nếu không có biện pháp ngăn chặn, mức nước có thể tăng thêm từ 38 cm đến 56 cm vào năm 2100.

Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến các đảo nhỏ mà còn đe dọa gần 40% dân số thế giới sống gần các khu vực ven biển, với khoảng 900 triệu người đang sinh sống trong những khu vực dễ bị tổn thương. Những thành phố lớn như Cairo, Lagos, Los Angeles, Mumbai và London đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng liên quan đến xói mòn bờ biển, ngập lụt và bão tàn phá.

Nguyên nhân chính của sự gia tăng mực nước biển là hiện tượng nóng lên toàn cầu, chủ yếu do sự gia tăng khí nhà kính trong khí quyển. Các khí như carbon dioxide và mê-tan từ hoạt động đốt nhiên liệu hóa thạch làm nhiệt độ đại dương tăng lên. Từ năm 1970, đại dương đã hấp thụ khoảng 90% lượng khí thải từ sự nóng lên toàn cầu. Nhiệt độ đại dương năm 2023 được ghi nhận là mức cao nhất từ trước đến nay, làm cho nước biển giãn nở và tăng thể tích. Bên cạnh đó, sự tan chảy của băng ở Nam Cực và Greenland cũng góp phần làm mực nước biển dâng cao. Trung bình, mỗi năm có khoảng 150 tỷ tấn băng từ Nam Cực và 270 tỷ tấn từ Greenland bị mất do nhiệt độ tăng.

Các báo cáo gần đây còn cảnh báo về “điểm tới hạn” của khí hậu, khi mà nhiệt độ toàn cầu tăng vượt quá 1,5 độ C có thể dẫn đến sự tan chảy không thể đảo ngược của các tảng băng lớn, gây ra tác động nghiêm trọng đến mực nước biển. Những khu vực như đồng bằng châu thổ ven sông và các khu vực ven biển của các nước châu Á như Bangladesh, Ấn Độ và Trung Quốc đang ở trong tình trạng báo động cao.

Để đối phó với mực nước biển dâng cao, điều cần thiết là giảm nhanh chóng lượng khí thải. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là sự gia tăng mực nước biển ở một mức độ nào đó là điều không thể tránh khỏi. Ngay cả khi thế giới ngừng phát thải khí nhà kính ngay lập tức, vẫn sẽ có độ trễ trong việc tác động của nóng lên toàn cầu đến nhiệt độ đại dương và băng tan.

Các quốc gia trên toàn cầu đang áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để thích ứng. Một số biện pháp đơn giản và dựa vào thiên nhiên bao gồm ngăn chặn xói mòn bờ biển bằng cách tái sinh rừng ngập mặn ở Cameroon hoặc xây dựng các bức tường chắn sóng biển ở Senegal. Đối với những khu vực dễ bị tổn thương như các đảo nhỏ, nhiều nơi đã thực hiện các giải pháp cực đoan hơn như di dời dân cư lên các vùng đất cao hơn như ở ở Fiji hoặc xây dựng các thành phố nổi ở Maldives và lấn biển ở Tuvalu.

Ngoài ra, việc hỗ trợ tài chính cho các quốc gia đang phát triển để ứng phó với tình trạng này cũng rất quan trọng. Những giải pháp toàn cầu cần được thực hiện đồng bộ và khẩn trương để bảo vệ không chỉ các cộng đồng ven biển mà còn cả môi trường sống của con người trên toàn cầu.

Nguồn: baotintuc.vn

Biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao: Tác động và giải pháp

 

Phê duyệt quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2023

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 1117/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn đến năm 2050.

Phê duyệt quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2023- Ảnh 1.Phê duyệt quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2023- Ảnh 1.

Tài nguyên vùng bờ được quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững để phát triển toàn diện các ngành kinh tế biển

Theo Quyết định, mục tiêu cụ thể của quy hoạch là bảo vệ, duy trì và phục hồi hệ sinh thái, đa dạng sinh học và các giá trị khác của vùng bờ; tăng diện tích bảo tồn, bảo vệ giá trị tự nhiên, sinh thái biển, rừng ngập mặn tại vùng bờ, góp phần thực hiện mục tiêu đạt diện tích tối thiểu bằng 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia.

Sắp xếp, phân bố hợp lý không gian cho các ngành, lĩnh vực và giải quyết cơ bản các chồng lấn, mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ, bảo đảm khả năng phục hồi của hệ sinh thái, bảo vệ môi trường vùng bờ, góp phần đạt được các chỉ tiêu: 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt, 100% rác thải nhựa tại các bãi biển, khu du lịch biển và khu bảo tồn biển được thu gom và xử lý; 100% khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững, sinh thái, thông minh và an toàn, có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường.

Bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển, cải thiện sinh kế và nâng cao mức sống cho cộng đồng dân cư ven biển, không còn xã đặc biệt khó khăn ở vùng bờ, góp phần nâng thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân của cả nước; bảo vệ, bảo tồn các di sản văn hóa, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa biển, góp phần xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam toàn diện, phù hợp với xu thế thời đại.

Tầm nhìn đến năm 2050, tài nguyên vùng bờ được quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững để phát triển toàn diện các ngành kinh tế biển, góp phần đưa vùng bờ trở thành trung tâm phát triển kinh tế - văn hóa sôi động, thu hút đầu tư, là cửa ngõ kết nối không gian phát triển giữa đất liền với biển, kết nối giao thương giữa Việt Nam với quốc tế; xây dựng các vùng ven biển thành chỗ dựa vững chắc để tiến ra biển và tạo động lực cho các vùng khác trong cả nước cùng phát triển; có môi trường trong lành, an toàn và các giá trị tự nhiên, sinh thái, cảnh quan, văn hóa, lịch sử được bảo vệ, giữ gìn và phát triển; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, hướng tới mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn, đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Phạm vi quy hoạch

Phạm vi quy hoạch vùng bờ bao gồm vùng biển ven bờ và vùng đất ven biển, cụ thể:

a) Vùng biển ven bờ có ranh giới trong là đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm (18,6 năm) và ranh giới ngoài cách đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm 6 hải lý.

b) Vùng đất ven biển bao gồm các xã, phường, thị trấn có biển thuộc 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.

Tuy nhiên, để bảo đảm tính vẹn toàn của các hệ sinh thái, sinh cảnh quan trọng và quan tâm đầy đủ đến sự tương tác mạnh giữa đất liền và biển, phạm vi không gian vùng bờ ở một số khu vực được mở rộng hơn cả về phía đất liền và biển.

Phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên vùng đất ven biển

Các vùng đất ven biển và các hải đảo được sắp xếp, phân bổ theo Quy hoạch sử dụng đất quốc gia, phù hợp với Quy hoạch tổng thể quốc gia theo 4 vùng kinh tế - xã hội: vùng phía Bắc từ Quảng Ninh đến Ninh Bình; vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ từ Thanh Hóa đến Bình Thuận; vùng Đông Nam Bộ, gồm có Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh; vùng Tây Nam Bộ từ Tiền Giang đến Kiên Giang.

Để thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế biển xanh, bảo đảm hài hòa giữa các hoạt động trên đất liền và dưới biển, hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên trên các vùng đất ven biển được ưu tiên cho phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là tuyến hành lang đường bộ cao tốc, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị ven biển nhằm tạo đà, động lực thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế biển, kết nối vùng ven biển với các hải đảo, vùng kinh tế trọng điểm và cửa khẩu quốc tế. Thực hiện lấn biển ở những khu vực thích hợp, không làm suy thoái tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái, tính đa dạng sinh học và các giá trị văn hóa - lịch sử tại vùng bờ để tăng thêm không gian, quỹ đất cho phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.

Vùng đất ven biển phía Bắc

Khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh là trung tâm kinh tế biển hiện đại, mang tầm quốc tế, hàng đầu ở Đông Nam Á, là cửa ngõ, động lực phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng; khu vực Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình phát triển mạnh và bền vững kinh tế biển.

Về hạ tầng: Tập trung đầu tư và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng ven biển, nhất là tuyến đường bộ, đường sắt ven biển, đường kết nối cảng đến quốc lộ và cao tốc; nghiên cứu xây dựng các tuyến đường sắt mới kết nối các cảng biển, cửa khẩu quốc tế Móng Cái với Hà Nội. Phát triển các đô thị, điểm dân cư ven biển theo hướng hình thành chuỗi đô thị ven biển, gắn với phát triển kinh tế biển, liên kết chặt chẽ thông qua vành đai kinh tế ven biển.

Về các ngành kinh tế ưu tiên: Hình thành các khu du lịch quốc tế hóa cao ở Quảng Ninh (Vân Đồn, vịnh Hạ Long), phát triển Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của khu vực và thế giới; liên kết phát triển vùng du lịch Cát Bà - vịnh Hạ Long - Bái Tử Long - Vân Đồn thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, du lịch di sản thiên nhiên biển - đảo có tầm quốc tế ở châu Á - Thái Bình Dương.

Phát triển cảng biển quốc tế, vận tải biển viễn dương và trong nước, dịch vụ hàng hải, dịch vụ logistics đa phương thức với trung tâm là cụm cảng Hải Phòng - Quảng Ninh.

Vùng đất ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ

Vùng đất ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ là cửa ngõ ra biển của vùng Tây Nguyên và nước bạn Lào, có khả năng phát triển nhanh, mạnh, bền vững về kinh tế biển với các khu kinh tế ven biển hiện đại, hệ thống đô thị ven biển thông minh, thân thiện với môi trường, có khả năng chống chịu cao với thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu; các giá trị văn hóa, lịch sử và các hệ sinh thái được bảo vệ, bảo tồn và phát huy.

Về hạ tầng: Kết nối đồng bộ hệ thống giao thông với các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp, khu công nghệ cao Đà Nẵng và các cảng hàng không, cảng biển; hoàn thành tuyến đường bộ ven biển tại các địa phương trong vùng; nghiên cứu đầu tư, nâng cấp các tuyến đường cao tốc trục ngang kết nối cửa khẩu quốc tế với các cảng biển; tập trung nguồn lực phát triển các cảng biển có tiềm năng thành cảng biển đặc biệt, nhất là các cảng biển ở Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng và Khánh Hòa.

Về phát triển các ngành kinh tế ưu tiên: Tập trung phát triển mạnh kinh tế biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển, nhất là các ngành như du lịch và dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, chế biến dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác, nuôi trồng và khai thác thủy sản, công nghiệp ven biển, năng lượng tái tạo, các ngành kinh tế biển mới,... Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào 11 khu kinh tế ven biển hiện có.

Vùng đất ven biển Đông Nam Bộ

Vùng đất ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế biển mạnh có tầm quốc tế hàng đầu ở Đông Nam Á với các ngành, lĩnh vực ưu tiên: cảng biển, logistics, khai thác dầu khí, hóa dầu, du lịch biển, khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản.

Phát triển các loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, văn hóa, thể thao, các dịch vụ vui chơi giải trí chất lượng cao. Phát triển chuỗi đô thị du lịch ven biển theo hướng đô thị xanh.

Đầu tư hoàn thiện hệ thống đường ven biển; đẩy mạnh xây dựng khu vực cảng biển Cái Mép - Thị Vải - Sao Mai - Bến Đình, liên kết với cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó ưu tiên nguồn lực cho phát triển cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép - Thị Vải thành cảng quốc tế trung chuyển lớn, có tầm cỡ khu vực châu Á và quốc tế; nghiên cứu xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ; cải tạo cơ bản đạt cấp kỹ thuật các tuyến luồng đường thủy nội địa; hình thành các cụm cảng phục vụ nhu cầu thu gom, giải tỏa hàng hóa cho các cảng biển lớn trong vùng. Xây dựng khu thương mại tự do gắn với cảng biển tại khu vực Cái Mép Hạ, hình thành hệ sinh thái công nghiệp - dịch vụ hoàn chỉnh.

Vùng đất ven biển Tây Nam Bộ

Vùng đất ven biển Tây Nam Bộ gồm các trung tâm kinh tế biển mạnh của khu vực Đông Nam Á với phát triển công nghiệp xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, nhất là điện gió, điện mặt trời gắn với bảo vệ rừng và bờ biển; nuôi trồng, khai thác hải sản, dịch vụ hậu cần, hạ tầng nghề cá hiện đại phục vụ khai thác xa bờ, hình thành và phát triển du lịch sinh thái, góp phần chủ động phòng, tránh, giảm thiểu rủi ro thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Về hạ tầng: Hoàn thiện hệ thống giao thông kết nối với các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới; tập trung khai thác tốt các cảng biển, trong đó khu bến Trần Đề (cảng biển Sóc Trăng) định hướng quy hoạch tiềm năng thành cảng biển đặc biệt, đảm nhận vai trò cảng cửa ngõ vùng đồng bằng sông Cửu Long; nâng cấp, cải tạo, duy trì các tuyến luồng hàng hải, trong đó chú trọng các luồng hàng hải cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu, luồng hàng hải Trần Đề.

Về phát triển các ngành kinh tế ưu tiên: Phát triển công nghiệp khí, chế biến khí, điện khí, năng lượng tái tạo. Đẩy mạnh nuôi trồng, khai thác thủy sản tại khu vực ven biển theo hướng hiện đại, bền vững; phát triển công nghiệp chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần, hạ tầng nghề cá; tái tạo nguồn lợi thủy sản và bảo vệ nguồn đa dạng sinh học biển.

Phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên vùng biển ven bờ

Việc phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên vùng biển ven bờ được thực hiện trên cơ sở chức năng của các khu vực và nguyên tắc về xử lý chồng lấn theo thứ tự ưu tiên như sau: (1) Nhu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh; (2) Nhu cầu bảo vệ, bảo tồn các hệ sinh thái biển; (3) Nhu cầu cho các hoạt động phát triển kinh tế. Đối với chồng lấn giữa các hoạt động cho mục đích phát triển kinh tế, định hướng ưu tiên sử dụng biển xác định theo thứ tự: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế mới.

Trong trường hợp cần thiết, trên cơ sở đề xuất của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các bộ, ngành có liên quan, Bộ Tài nguyên và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh thứ tự ưu tiên sử dụng đối với biển ven bờ cụ thể dựa trên việc phân tích, đánh giá tính hiệu quả, chi phí lợi ích về kinh tế, xã hội, môi trường và khả năng hỗ trợ bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển.

6 giải pháp thực hiện quy hoạch

Quyết định đề ra 6 giải pháp thực hiện quy hoạch gồm: 1. Giải pháp về quản lý; 2. Giải pháp về môi trường, khoa học và công nghệ; 3. Giải pháp về tuyên truyền, nâng cao nhận thức; 4. Giải pháp về đào tạo, tăng cường năng lực; 5. Giải pháp về tài chính đầu tư; 6. Giải pháp hợp tác quốc tế.

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển tổ chức, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch; định kỳ tổ chức đánh giá, rà soát, điều chỉnh quy hoạch theo quy định; công bố quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch.

Đồng thời xây dựng và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu thực hiện quy hoạch; cung cấp thông tin về quy hoạch vào hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch theo quy định. Phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để bố trí ngân sách hàng năm; tổng hợp trình cấp có thẩm quyền giao kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm để thực hiện quy hoạch.

Nguồn: baochinhphu.vn

Phê duyệt quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2023

 
Trang 12345678910

Trang 5 trong tổng số 27 trang

Video sự kiện

You need Flash player 6+ and JavaScript enabled to view this video.

Playlist: 0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23

1.2024

2.2024

 

  • Tin mới nhất
  • Tin xem nhiều nhất

Liên kết web

Bộ Tài nguyên và Môi trường Cục quản lý tài nguyên nước Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Tổng cục địa chất và khoáng sản Dự án BRG Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam Ủy ban sông Mê Kông Hội địa chất thủy văn Việt Nam

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay902
mod_vvisit_counterTrong tuần3001
mod_vvisit_counterTrong tháng29191
mod_vvisit_counterTất cả7649524

We have: 14 guests online